Tác giả: Dr. Baird Thomas Spalding
Dịch giả: Nguyên Phong
Thể loại: Khoa
học Tâm linh
- - - - - - -
Chương 6
Bác sĩ Kavir cho biết
nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự kiện huyền bí, những phép thuật lạ lùng
thì phải đến gặp pháp sư Vishudha.Vị pháp sư này có lệ không bao giờ tiếp
khách, ngay cả những tín đồ thuần hành sùng kính nhất. Ông sống trong một căn
nhà nhỏ với một vài đệ tử thân tín và rất ít khi nào ra ngoài. Các đệ tử cho biết
thầy họ không bao giờ biểu diễn phép thuật dù ở nơi kín đáo, và không chịu cho
phái đoàn vào. Bác sĩ Kavir mang hết tài dẫn dụ ngoại giao cũng như quyền lực
hăm doạ nhưng họ vẫn khăng khăng. Sự hiện diện của một nhóm người Âu, gây nhiều
chú ý của dân chúng và tín đồ hành hương, nên chỉ một lúc, một đám đông đã vây
kín phái đoàn. Có lẽ tiếng động ồn ào này tạo sự chú ý của vị pháp sư nên ông
ra lệnh cho đệ tử mời bác sĩ Kavir vào nói chuyện. Một lát sau, Kavir bước ra
nét mặt hân hoan:
Đó là một ông lão
to lớn, tóc bạc trắng như cước ngồi trên tấm bồ đoàn kết bằng cỏ, nét mặt ông lạnh
như băng, và đôi mắt như nhìn vào khoảng không, như không thèm chú ý gì đến
phái đoàn. Một đệ tử lên tiếng:
- Chúng tôi được biết
đạo sư có các quyền năng phi thường. Mục đích chuyến đi này của chúng tôi, là
nghiên cứu những sự kiện huyền bí, ghi nhận một cách khoa học những điều tai
nghe, mắt thấy…
- Tôi sẽ thu hút các mùi hương trong không
khí, các ông thích mùi gì?
- Bây giờ các ông hãy chọn một mùi hoa gì đặc biệt của xứ các ông mà không hề có tại xứ Ấn Độ.
Link xem Chương 1. Một người Ấn kỳ lạ:
Giáo sư Mortimer buột miệng:
- Xin ông giải thích việc này?
- Đó chỉ là môn khoa học gọi là Thái dương học.
Ánh sáng mặt trời chứa đựng một năng lực rất mạnh, nếu biết chọn lựa và cô lập
nó ta có thể tạo mọi vật theo ý muốn.
- Thái dương học, phải chăng nó là môn khoa
học của dân Atlantic?
- Tin hay không là tuỳ các ông. Người Âu lúc
nào cũng đòi hỏi bằng chứng này nọ, nếu các ông muốn gọi nó là truyền thuyết
cũng chẳng sao…. Khoa học nơi đâu cũng có nguồn gốc, khi tiến đến một trình độ
cao xa thì thời gian hay không gian, đâu có nghĩa lý gì nữa. Khoa Thái dương học
thật ra xuất xứ từ Tây Tạng ở một thời đại xa xôi, khi Ấn Độ còn là một hòn đảo
và rặng Hy Mã Lạp Sơn còn là một bờ biển… nhưng điều này đâu có ích gì cho việc
nghiên cứu của các ông?
- Đây là giống nho Pajouti chỉ mọc ở miền
nam nước Ý, không hề được xuất cảng. Mùi của nó thơm nhưng vị hơi chát. Mọi người
xúm lại xem chùm nho. Có người ngắt vài quả bỏ vào miệng ăn như sợ rằng đó chỉ
là một ảo tưởng. Chờ mọi người ăn xong, Vishudha trịnh trọng:
- Đây đâu phải lần đầu các ông thấy một sự lạ
xuất hiện. Các ông đã nghe nói về chuyện này rồi đấy chứ. Các ông không nhớ
chuyện đấng Christ hỏi thánh Phillip ở thành Galileo, “chúng ta sẽ mua bánh mì ở
đâu?” Ngài biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua
ngoài chợ. Ngài mượn dịp đó để chỉ cho các tín đồ rằng người ta có thể tạo ra
bánh mì bằng sức mạnh của tinh thần. Thông thường mọi người chỉ nghĩ rằng ta có
bao nhiêu bánh mì hay bao nhiêu tiền bạc và chỉ giới hạn trong một khuôn khổ
nào đó thôi. Điều đức Jesus muốn nói là khi ta đã sống với tâm thức của Chân
Ngã, thì người ta không còn thiếu sót hay gò bó vào một giới hạn nào nữa. Ngài
nhìn về thượng đế là nguồn gốc sáng tạo ra muôn loài, và tạ ơn thượng đế đã
luôn đặt vào tay loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thoả mãn tất
cả nhu cầu của họ. Đức Jesus đã bẻ bánh mì và bảo tông đồ hãy phân phát cho mọi
người. Khi tất cả ăn no rồi mà vẫn còn dư đến 10 rổ bánh. Cũng bằng cách đó mà
Elisê đã làm cho người quả phụ thành Jerusalem có dầu ăn thừa thãi không bao giờ
hết. Ngài không hỏi đến kẻ có dư thừa dầu trong nhà, vì như thế số dầu chỉ giới
hạn mà thôi. Những câu chuyện trong Kinh thánh đã dạy ta điều gì? Phải chăng
các môn khoa học đời nay không thể giải thích vấn đề này? Phải chăng có kẻ cho
đó chỉ là một chuyện thần thoại? Có lẽ các ông cho rằng những chuyện này được
ghi chép từ lâu rồi nên có phần nào sai lạc đi?
Link xem Chương 2. Người đạo sĩ thành Benares:
Mọi người trong phái đoàn giật mình vì câu hỏi
bất ngờ. Kinh thánh đối với họ không phải quyển sách nào xa lạ. Phần lớn đều
thuộc lòng nhưng ít ai suy nghĩ cặn kẽ về những sự kiện xảy ra trong đó.
Vishudha mỉm cười nhìn từng người rồi tiếp tục:
- Đức Jesus đã dạy rằng trong thiên nhiên có
chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm lương thực của mình trong
đó. Chúng ta chỉ cần rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần dùng. Nhưng
con người hèn nhát và thiếu đức tin đã không nghĩ rằng họ có thể thực hiện được
những việc này. Nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn lên để
thực hiện ý muốn, để sáng tạo thì con người lại thu hẹp mình lại. Nghĩ rằng
mình không thể làm được những việc đó. Vì thế con người càng ngày càng rời xa Thượng
đế. Đến nay con người tin rằng họ là một thực thể cách biệt với Thượng đế.
- Các ông đã thấy, tôi đã lạm dụng các định
luật huyền bí giúp tôi thực hiện ý muốn. Tôi vừa đốt cháy đồ vật mà tôi tạo
nên. Làm như thế tôi đã lạm dụng một điều luật bất di bất dịch của thiên nhiên.
Nếu tôi tiếp tục làm thế thì không những món đồ bị đốt cháy, mà chính kẻ sáng tạo
là tôi cũng chịu chung số phận. Các ông đã ngửi mùi hương và việc tôi làm chậu
hoa hồi sinh, cũng như chùm nho xuất hiện… Tôi có thể sử dụng quyền năng này khi
làm một việc có ích cho nhân loại, hoặc với một lòng bác ái thanh cao vì đó là
hợp với luật vũ trụ, hợp với thiên ý. Trái lại, chỉ với một ý định xấu xa như
khoe trương bản ngã, tôi sẽ đi lệch đường và chịu trách nhiệm về việc làm của
mình nghĩa là sẽ gặp ngay sự phản tác dụng về hành động của mình.
- Này các ông, những nhà thông thái, thế đã
thoả mãn các mong ước, hiếu kỳ của các ông chưa? Nếu các ông còn mê man trong
các cuộc khảo cứu, ghi nhận các hiện tượng lạ lùng mà khoa học chưa giải thích
được thì khắp thành phố này, có hàng trăm đạo sĩ, pháp sư có thể làm những chuyện
đó. Điều đáng tiếc rằng rất ít người hiểu biết về cái hậu quả họ sẽ phải gánh
chịu. Các ông muốn ghi nhận những phép thuật thần thông để làm gì? Phải chăng
các ông sẽ công bố cho mọi người Âu Mỹ biết hay sao? Như thế có ích lợi gì? Liệu
đã có mấy ai tin tưởng rằng những điều các ông nói không phải là một sự tưởng
tượng? Có thể họ sẽ lên án các ông là đằng khác. Có bao giờ các ông nghĩ rằng
mình đang làm một chuyện vô ích hay không? Có lẽ các ông sẽ làm những phúc
trình về các hiện tượng lạ lùng nhưng rồi sẽ đi đến đâu? Cuộc đời đâu phải chỉ
quan sát ghi nhận rồi làm những thống kê, có phải không? Này các nhà thông
thái, các ông đã khám phá thế nào là mục đích cuộc đời chưa? Nếu các ông chưa tự
hỏi mục đích cuộc đời mình để làm gì thì ghi nhận, nghiên cứu có ích lợi gì đâu?
Khi chưa tìm được giải đáp cho chính mình thì các phúc trình, thống kê cũng vô
ích thôi, có phải như thế không?
Link xem Chương 3. Khoa học thực nghiệm và khoa học chiêm tinh bí truyền:
Rời khỏi căn nhà đá, toàn thể mọi người đều
xúc động, không ai nói lên một lời nào. Những sự kiện xảy ra đã làm đảo lộn mọi
quan niệm thông thường về vật lý, hoá học… Đúng như nhà đạo sĩ đã nói, làm sao
chứng minh một phép lạ đây? Làm sao có thể cho những người Âu đang bận rộn với
mưu sinh tại New York hay London biết rằng ở phương Đông có những bí mật vô tận,
những triết lý cao cả mà người Tây phương không thể hiểu. Tư tưởng Đông phương đã
vượt xa, rất xa những tư tưởng tiến bộ nhất của Tây phương. Có lẽ các nhà hiền
triết xứ này đã mỉm cười trước những ngông cuồng, hỗn tạp của cái gọi là khoa học
tiến bộ. Câu hỏi của Vishudha khiến mọi người suy nghĩ rất nhiều. Lúc đầu, ai
cũng mong ghi nhận những điều lạ lùng để nghiên cứu nhưng trước những sự kiện
mà khoa học không thể giải thích, toàn thể mọi người đâm ra bối rối không biết
phải làm gì.
- Harishchandra không những là một đạo sư
Yoga mà còn là một nghệ sĩ. Ông ta có thể sử dụng tất cả nhạc khí cổ điển cũng
như tân tiến, ông còn vẽ tranh, nặn tượng, làm thơ… Tóm lại, chả có bộ môn nghệ
thuật nào mà ông ta không biết.
- Ông theo học ở đâu và làm sao có thể biết
nhiều thứ như vậy?
- Bác sĩ Kavir nói không đúng đâu. Tôi chỉ
biết chút đỉnh về vài bộ môn nghệ thuật. Tôi không hề được đi học nhưng Yoga đã
giúp tôi…
- Ông muốn nói đến phương pháp khí công hay
các tư thế?
- Không phải thế, tôi ý thức được sự sáng tạo
trong một buổi thiền định, và từ đó tôi có thể làm được nhiều thứ. Đa số con
người đều coi nghệ thuật như một phương tiện giải trí, họ sử dụng nghệ thuật
như một cái gì giúp họ trốn thoát hoàn cảnh con người của họ. Nghe một bài ca,
một câu hát họ quên đi các ưu phiền hiện tại… Đó không phải là sự thưởng thức
cái Chân, Thiện, Mỹ của nghệ thuật. Nghệ thuật mà tách khỏi cuộc sống thì chỉ
là một kỹ thuật phô diễn những cái gì hời hợt, các ước vọng nông cạn. Nguồn cảm
hứng không phải mời gọi mà được, mà là một rung động tự nhiên. Tất cả cố gắng
chiếm đoạt cảm hứng qua bất cứ một hình thức nào, chỉ là những ảo tưởng. Tài
năng, thiên tư chỉ giúp ta nhận thấy bản ngã, giúp ta thoả mãn các ước vọng thấp
hèn, và làm thui chột sự sáng tạo. Một nghệ sĩ chân chính là người thực sự vượt
qua các hư ảo của bản ngã, của danh vọng và ý thức cái đẹp của nghệ thuật như một
thực tại.
Link xem Chương 4. Trên đường thiên lý: https://www.youtube.com/watch?v=yMbzxWptbUU&t=12s
Nhìn thấy mọi người có vẻ ngơ ngác.
Harishchandra mỉm cười giải thích:
- Nội tâm con người là một bãi chiến trường
luôn luôn có xung đột giữa các quan niệm, hình thức, lý thuyết, thực hành. Sự
tranh chấp này thường gây lầm lỗi. Khi ta nghe một bản nhạc, thưởng thức một bức
tranh ta rung động theo cảm nhận của ta. Rung cảm này mỗi cá nhân một khác, vì
nó dựa theo các quan niệm, thành kiến sẵn có. Nếu tôi thích nhạc Mozart, thì tất
cả các nhạc sĩ khác đều khó có thể so sánh với ông này. Dĩ nhiên người mê Beethoven
không đồng ý như thế. Tóm lại, sự rung động của tôi đã có thành kiến, vì như thế
tôi mất đi nhạy cảm đối với sự sáng tạo. Một người nghệ sĩ sẽ trở nên một cái
máy nếu y chỉ biết phục vụ cho bản ngã, làm việc để phô trương cá nhân, để thoả
mãn dục vọng thay vì để sáng tạo. Y chỉ biết “tôi viết”, “tôi soạn nhạc”, “tôi
vẽ”, “tôi sáng tác”, … Từ phút đó, y mất đi khả năng sáng tạo tuyệt vời mà chỉ
còn là cái xác không hồn. Sự thành công, lời khen tặng, làm căng phồng bản ngã
của y và làm lu mờ sự rung động với cái đẹp thật sự. Cái tinh thần ham lợi, háo
danh đó không phải là tinh thần yêu cái đẹp, mà bắt nguồn từ sự khao khát dục vọng.
Dục vọng đòi hỏi một sự bảo đảm an toàn, do đó người nghệ sĩ đâm ra sợ hãi. Từ
đó, y xây một bức rào ngăn cách với mọi sự vật khác. Y không còn chiêm ngưỡng
những cái đẹp nữa. Dĩ nhiên, cái đẹp vẫn còn đó nhưng lòng y đã khô héo vì
thành kiến, và xu hướng biệt lập. Thay vì nhìn sự vật như một thực tại, y lại
nhìn nó qua một hình thức sưu tập, chiếm hữu biến nó thành một đồ vật. Người nghệ
sĩ chân chính chỉ biết sáng tạo, chúng ta chỉ biết thưởng thức. Chúng ta đọc
sách, nghe nhạc, ngắm các tác phẩm nghệ thuật nhưng chúng ta không hề có cái
rung động sâu xa của người sáng tạo. Muốn ca hát ta cần có một bản nhạc, nhưng
vì không có bản nhạc tuyệt diệu, chúng ta đâm ra theo đuổi ca sĩ. Thiếu sự
trung gian này, ta thấy mất mát. Trước một vẻ đẹp, ta lại có ý so sánh nó với một
bức tranh; trước một âm thanh thiên nhiên ta lại chỉ tưởng tượng đến một bản nhạc
nào đó. Ta chỉ còn biêt rung động qua sự rung động của kẻ khác. Đó không phải
là sáng tạo.
- Muốn sáng tạo, ta cần một tài năng, thiên
tư chứ đâu phải ai cũng có thể sáng tạo, đâu phải ai cũng có tài…
- Không phải thế, ai cũng có thể sáng tạo mà
không cần tài năng đặc biệt, vì sự sáng tạo là trạng thái tuyệt vời của nghệ
thuật. Không bị ảnh hưởng của bản ngã. Sáng tạo không có nghĩa là soạn nhạc,
làm thơ, vẽ tranh, nhưng là một trạng thái mà trong đó Sự Thật có thể biểu hiện.
Sự Thật chỉ có thể biểu hiện khi tư tưởng ngưng đọng lại. Và tư tưởng chỉ ngưng
đọng lại khi bản ngã vắng mặt. Khi tâm hồn hoàn toàn tĩnh lặng, không bị thôi
thúc bởi dục vọng, khả năng sáng tạo sẽ tự biểu lộ. Khi “cái ta” không còn nữa,
thì tất cả là một sự hợp nhất thiêng liêng. Cái đẹp có thể được diễn tả trong một
bài thơ, bản nhạc, nụ cười hay trong sự im lặng. Phần lớn con người không có khuynh
hướng yên lặng. Chúng ta không có thời giờ quan sát đám mây trời, buổi hoàng
hôn, một ngọn núi hùng vĩ, một bông hoa hé nở, vì đầu óc chúng ta quá bận rộn,
quay cuồng. Mắt ta nhìn cảnh nhưng lòng ta không rung động chút nào, vì còn mải
mê theo đuổi những ảo ảnh. Đôi khi ta cũng có cảm giác rung động khi nghe một bản
nhạc hay, nhưng nếu ta cứ nghe đi, nghe lại bản nhạc đó để tìm lại cảm giác ban
đầu thì ta đã vô tình giết chết sự sáng tạo. Người nghệ sĩ chân chính là người
mở rộng tấm lòng để cảm hứng đến một cách tự nhiên, là người nhìn thấy Chân,
Thiện, Mỹ ở khắp tất cả mọi nơi, chứ không phải qua khả năng hồi tưởng hoặc qua
một chất kích thích.
Link xem Chương 5. Thành phố thiêng liêng: https://www.youtube.com/watch?v=WRSmZJhMbUY&t=22s
Harishchandra mỉm cười, rút trong áo ra một
cây sáo trúc rất dài, y đưa sáo lên miệng nhưng rất lâu không một âm thanh nào
phát ra. Giáo sư Mortimer sốt ruột:
- Chúng tôi không nghe thấy gì cả, ông có thổi
sáo hay không đó?
- Các ông chưa biết thưởng thức âm nhạc vì
lòng các ông còn đầy thành kiến, hãy im lặng vì âm thanh của tôi là sự bình an…
Khi giáo sư Mortimer giật mình tỉnh lại, thì âm
thanh đã chấm dứt từ lâu. Đạo sĩ vẫn ngồi yên khẽ mỉm cười, cây sáo trúc đặt
trước mặt. Toàn thể phái đoàn ngây ngô nhìn nhau không nói nên lời. Giáo sư
Mortimer lắc đầu thắc mắc:
- Âm thanh gì kỳ vậy? Liệu ông có thể giải
thích được không?
- Các ông nên biết, con người có nhiều thể
bao quanh xác thân như thể phách, thể vía, thể trí… Các thể này được cấu tạo bằng
những nguyên tử rất nhẹ, rất thanh gần như vô hình. Âm nhạc tự nó đã có các
rung động cùng nhịp với sự rung động của các thể, nên ảnh hưởng rất nhiều đến
con người.
Âm thanh vừa
qua căn bản trên “phần tư âm”, có tác động lên thể trí các ông. Các loại âm
thanh dựa trên “phần ba âm” tác động lên thể vía, và “phân nửa âm” tác động lên
thể xác. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì “phần tư âm” thanh hơn nên ảnh hưởng đến
các thể nhẹ hơn. Con người chỉ biết tác động của âm nhạc ở cõi vật chất nhưng
không hiểu ảnh hưởng của chúng ở các cõi trên. Âm nhạc lưu một dấu vết trên
thân thể con người, và trực tiếp ảnh hưởng đến tính tình, hành động. Điều này
có thể ví như khi ta ném một hòn đá xuống ao. Khi hòn đá chìm nhưng làn sóng vẫn
gợn, và lan rộng ra. Một cái lá nổi trên mặt nước chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh
hưởng. Hậu quả của âm nhạc còn mạnh hơn như vậy. Do đó, việc chọn nhạc để nghe
rất quan trọng. Kinh Veda đã nói, “vũ trụ tạo lập do sự phối hợp các âm thanh”.
Thánh kinh cũng ghi nhận, “huyền âm xuất hiện trước nhất, và huyền âm ở với Thượng
đế, huyền âm là Thượng đế.”
Link xem Chương 6. Những sự kiện huyền bí: https://www.youtube.com/watch?v=7uQII_kf1ws&t=98s
Bác sĩ Bandyo, cựu giám đốc bệnh viện
Calcutta, một giáo sư đại học nổi tiếng về khoa giải phẫu. Ông là một bác học Ấn
Độ đã được đề nghị trao giải thưởng Nobel về y học. Sau một biến cố, ông từ chức,
lui về ẩn cư tại một làng nhỏ gần Rishikesh để săn sóc sức khoẻ cho dân chúng tại
đây. Ông là người mà thương gia Keysmakers ca tụng và hết sức giới thiệu, nên
phái đoàn tìm đến gặp.
- Chúng tôi nghe nói ông đã từ chức trong
trường hợp hết sức đặc biệt. Thương gia Keysmakers dặn chúng tôi nên hỏi ông về
việc này. Xin ông vui lòng cho biết lý do.
- Đây là một câu chuyện đáng lý không bao giờ
tôi nói cho ai biết, nhưng vì có lời giới thiệu của Keysmakers, nên tôi sẵn
sàng. Như các ông biết, tôi là một khoa học gia nổi tiếng, trọn đời hiến dâng
cho khoa học. Tôi không biết gì về Yoga cũng như không hề tin tưởng các sự kiện
vô hình, huyền bí, mà chỉ tin những gì khoa học có thể chứng minh một cách rõ
ràng thôi. Là một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh tật miền nhiệt đới, tôi có thói
quen là rất thích nghiên cứu các chứng bệnh lạ lùng, khó chữa. Tôi đã điều trị
hơn 100 trường hợp lạ lùng mà bác sĩ khác đã bó tay. Tôi ghi nhận rất kỹ triệu
chứng bệnh lý cũng như phương pháp chữa trị và viết vài tài liệu y học để giảng
dạy trong các trường y khoa thế giới. Tôi đã nhiều lần đi diễn thuyết về bệnh
miền nhiệt đới, và được đề nghị trao giải thưởng Nobel. Dĩ nhiên đó là một vinh
dự lớn cho cá nhân tôi và xứ Ấn Độ. Một hôm, người ta đưa vào bệnh viện một cô
bé chừng mười ba, mười bốn tuổi gì đó. Cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ
lùng, chưa từng nghe nói đến. Tôi rất thích thú, dành trọn thời gian nghiên cứu
căn bệnh này. Một hội đồng Y khoa gồm các bác sĩ danh tiếng nhất được thành lập
để nghiên cứu, suốt mấy tháng liền, chúng tôi ra công chữa trị, nhưng bệnh nhân
vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng thì mọi người đành bó tay. Tôi tuyệt vọng ngồi
cạnh bệnh nhân, chờ em bé trút hơi thở cuối cùng. Chưa bao giờ tôi thấy mình bất
lực trước sự sống chết vô thường như vậy. Bất chợt trong giây phút đó, tôi bỗng
ý thức một điều lạ lùng là sự hiện diện của một bầu không khí tươi mát và êm ái
không thể tả. Khắp phòng bỗng rực rỡ một màu sắc chói sáng và tôi thấy một người
đàn bà hiện ra ngay bên cạnh giường cô bé. Thân thể ngài sáng chói hào quang
như dòng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời. Trong giây phút đó, tôi bỗng nhận thức
ra ngài là đức Mẹ thế gian. Ngài mang nhiều danh hiệu khác nhau như đức mẹ Maria
của Thiên chúa giáo, đức Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo, đức Avalokiteshvara
của Ấn giáo. Ngài thuộc ngôi hai của Thượng đế và biểu hiệu cho lòng Từ bi, bác
ái, luôn luôn đáp lại những lời cầu xin của chúng sinh. Trong giây phút, lòng
tôi bỗng hoàn toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất mặc dù suốt đời tôi chưa bao
giờ biết cầu nguyện là gì. Tôi cầu xin với tất cả lòng thành kính, xin Mẹ cứu
chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn vinh hoạt động của Mẹ và theo
ngài vĩnh viễn. Bác sĩ Bandyo im lặng như ôn lại quá khứ.
- Rồi sao nữa, cô bé đó ra sao?
Link xem Chương 7. Vị đạo sĩ có thể chữa mọi bệnh:
- Các bạn mến, còn sao nữa, khi đức Mẹ hành
động thì có bệnh gì mà không khỏi. Ngày hôm sau, cả bệnh viện xôn xao vì tôi đã
chữa khỏi bệnh cho cô bé. Tất cả bạn hữu xúm vào trách tôi đã tìm ra cách chữa,
nhưng dấu kỹ, chờ mọi người bó tay rồi mới trổ tài. Trường Y khoa yêu cầu tôi
công bố phương pháp chữa trị, và đòi đặt tên tôi vào căn bệnh đó. Họ tin rằng với
phát minh này, chắc chắn giải Nobel sẽ về tay tôi. Các công ty thuốc cũng ồn ào
đòi tôi công bố loại thần dược. Chẳng những công ty xứ Ấn, mà ngay các công ty ngoại
quốc cũng nhất định đòi mua trọn bản quyền. Dĩ nhiên tôi không thể trả lời và dù
có nói cũng không ai tin. Hội đồng Y khoa cực kỳ giận dữ, tin rằng tôi dấu nghề,
các bạn thân cũng nhất định chất vấn kỳ được phương pháp chữa trị, và kịch liệt
công kích thái độ bất hợp tác của tôi. Bộ trưởng Y tế tiếp xúc với tôi, và cho
biết có mười bác sĩ khắp thế giới được đề nghị lãnh giải Nobel. Nhưng chỉ một
người trúng giải, nếu phát minh của tôi được công bố thì chắc chắn tôi sẽ lãnh
giải này. Tôi trả lời rằng chính đức Mẹ hiện ra, và chữa cho bệnh nhân. Tất cả
đều cho rằng tôi điên. Sau cùng, giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác
sĩ quốc gia khác. Hội đồng Y khoa Ấn Độ vô cùng tức giận đòi trục xuất tôi. Các
bạn đồng nghiệp cũng xa lánh và báo chí xúm vào chỉ trích tôi như một “thầy phù
thuỷ”. Các ông thử tưởng tượng, đang là một bác sĩ danh giá nhất xứ, bỗng trở
nên một “lang băm hạ cấp”? Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi không biết
phải làm gì hơn là cầu nguyện đức Mẹ, giúp cho tôi đủ can đảm để chịu đựng sự bất
hạnh này. Tất cả mọi người đều nguyền rủa, chế diễu, chỉ có một người duy nhất
tin ở tôi, đó là thương gia Keysmakers. Ông này dùng thế lực bênh vực cho tôi,
áp lực Hội đồng Y khoa phải phục hồi danh dự cho một bác sĩ bị vu cáo oan ức.
Nhờ ông tung tiền mua chuộc báo chí nên dư luận lắng dịu dần và rồi người ta
không còn chú ý đến tôi nữa. Trong suốt thời gian khủng hoảng, tôi tin rằng sự
kiện này ắt phải có lý do, nên hết lòng cầu nguyện đức Mẹ. Trong một buổi cầu
nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh. Trong một tiền kiếp xa
xôi, tôi là một y sĩ rất có tài nhưng tôi đã phủ nhận các quyền năng huyền bí
và chê bai những kẻ có đức tin hay cầu nguyện đức Mẹ, đó là hậu quả mà tôi phải
trả ngày nay… Kể từ hôm nhìn thấy đức Mẹ, một sự thay đổi lớn đã diễn ra trong
tâm hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết đến tôn giáo. Tôi hấp thụ nền giáo dục
Tây phương nên tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Sự chứng kiến phép lạ thay đổi tất
cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn toàn khác trước, tôi thấy
thanh thản vô cùng và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn
thời giờ để cầu nguyện và phát nguyện đời đời, kiếp kiếp theo chân đức Mẹ, cứu
giúp tất cả chúng sinh. Một hôm trong lúc cầu nguyện, ngài bỗng hiện ra mỉm cười,
và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một thế giới mới lạ. Tôi ý thức được các
điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng kiến rõ ràng các cõi giới
khác cũng như sự hoạt động, tiến hoá không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản
dị hơn, khả năng Thần nhãn của tôi bỗng khai mở. Từ đó, tôi quan sát, học hỏi
các cõi giới của Thiên thần. Diễn tả cõi giới vô hình bằng lời lẽ thông thường,
không thêm bớt là điều rất khó vì lời nói chỉ có thể diễn tả những gì hữu hình.
Diễn tả những điều không thể diễn tả, dĩ nhiên rất vụng về, nhưng bác sĩ Bandyo
đã lưu loát, hoạt bát diễn tả thế giới này như một sự kiện khoa học và hiển
nhiên.
- Có lẽ các bạn không tin tưởng lắm, điều
này không quan trọng. Tin hay không là quyền của các bạn. Tôi chỉ muốn chia sẻ
với các bạn kinh nghiệm tâm linh này thôi. Nhờ khai mở Thần nhãn, tôi biết
chung quanh chúng ta có một thế giới vô hình, rộng lớn và có những sinh vật
khác sinh sống. Sở dĩ tôi gọi là vô hình vì mắt thường không thể nhìn thấy được,
nhưng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh được thế giới này. Các sinh vật
vô hình thường được chúng ta gọi bằng danh từ như Ma, Quỷ, Tinh linh, …
Ch8
Một bác sĩ tận tâm sẽ có các rung động cộng
hưởng với ảnh hưởng này một cách vô hình, tự nhiên thu hút các từ điện tinh vi
này vào mình, để nó toát ra ở mười đầu ngón tay, và có thể hàn gắn vết thương một
cách dễ dàng, mầu nhiệm. Người ta không thể giải thích tại sao một bác sĩ này lại
giỏi hơn một bác sĩ kia, mặc dù họ cùng hấp thụ một nền giáo dục như nhau ? Và
một bác sĩ giỏi, ta gọi là bác sĩ “mát tay”, nhưng thật ra đó là do tư tưởng vị
y sĩ thanh cao, rung động với các luồng thần lực vũ trụ và trở thành một trung tâm
vận hà các sinh lực này đến bệnh nhân. Mặc dù y học tự hào đã chữa được nhiều
thứ bệnh, nhưng thực ra trên địa hạt siêu hình còn nhiều vấn đề mà y học phải
bó tay. Một bác sĩ có thể ví như một công cụ của thượng đế cứu giúp chúng sinh;
nhưng nếu viên y sĩ không ý thức điều này mà làm các hành động bất nhân thì y sẽ
chịu các hậu quả rất nặng. Lẽ dĩ nhiên, ân phước dồi dào không thể đến với ông,
và vì thế các ảnh hưởng bất hảo sẽ kéo đến ảnh hưởng đến đời sống, chức nghiệp,
khả năng của vị này. Nhờ có Thần nhãn, tôi thấy các bác sĩ chuyên phá thai chẳng
hạn, lúc nào quanh ông ta cũng có các oan hồn bu kín. Một bác sĩ bất cẩn cũng
thế, ông đã lạm dụng quyền năng thượng đế ban cho, làm thương tổn đến bệnh nhân
thì chắc chắn sẽ gặp những điều vô cùng bất hạnh. Từ ngàn xưa, người ta đã biết
điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates, đến nay không mấy ai để ý đến
chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả những nghề nghiệp thông thường khác, không
ý thức chức vụ thiêng liêng của mình. Là một bác sĩ chuyên về giải phẫu, tôi có
thể lấy kinh nghiệm của mình ra nói: trong cuộc giải phẫu, mạng sống của bệnh
nhân hoàn toàn nằm trong tay viên y sĩ, và các thiên thần hộ mạng. Một sơ ý, bất
cẩn cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc hành nghề y sĩ là một
bổn phận, chức vụ thiêng liêng, đòi hỏi một lương tâm, một lòng bác ái và hy
sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông thường.
- Các ông đều thuộc phái nam, nên không thể
hiểu tâm trạng người mẹ lúc sinh con. Dù hoàn cảnh có khó khăn, đau đớn thế
nào, khi vừa nghe con khóc, tất cả người mẹ nào cũng thấy sung sướng vô biên vì
khi đó tâm thức họ đang hoà hợp với ân phước đức Mẹ. Trong tim họ đang phản chiếu
sự hiện diện linh động của ngài, chói ngời lòng bác ái, thương yêu vô tả. Vào giờ
phút đó, chính vị thiên thần trông coi buổi lễ cũng nhận được một luồng hào
quang. Trong ánh sáng đó, người ta thấy một cái gì vinh quang, tươi đẹp, một
nguồn an lạc tuyệt vời, tuôn trào đến sản phụ và hài nhi. Khi đó vị thiên thần
hộ mạng bắt đầu làm công việc giúp đỡ đứa bé, giúp nó điều hoà sự sống đang bị
xáo trộn. Ngài phát ra các từ điện bao quanh đứa nhỏ, giống như các bọt xà
phòng để bảo vệ nó chống lại sự ồn ào bên ngoài. Nhờ đó, đứa bé sẽ thiếp đi trong
giây lát, lúc đó vị thiên thần chú tâm điều hoà tâm thức đứa nhỏ để nó thích hợp
với hoàn cảnh mới.
- Đối với một đứa bé vừa ra đời, khoa học chỉ
lo cho chúng ăn uống, dinh dưỡng đầy đủ mà thôi, chứ không hiểu chúng cần một yếu
tố vô cùng quan trọng đó là tình thương. Khi thể xác được chăm sóc thế nào thì
các thể khác cũng phải được chăm lo y như vậy; và món ăn cần thiết của các thể
này là tình thương. Thiếu tình thương, đứa trẻ khó lòng sống sót vì nhu cầu
tình cảm đôi lúc còn quan trọng hơn các nhu cầu khác. Tình thương là một yếu tố
dinh dưỡng cần thiết để trẻ em nẩy nở tâm lý, tinh thần và chính vì cha mẹ không
lo đủ nhu cầu này, mà các đứa trẻ chậm lớn, thiếu phát triển. Các bệnh tâm lý,
thần kinh đều trực tiếp phát nguồn từ đây. Lý do này cũng giản dị thôi, đứa bé
hình dung vũ trụ theo lối cư xử của cha mẹ đối với nó. Tuỳ theo nó được yêu hay
ghét mà cuộc đời hiện ra đáng ghét hay đáng yêu. Từ lúc sơ sinh, nó nhận được
tiềm lực yêu thương từ đức Mẹ, và nếu được yêu thương, năng lực này sẽ phát động
mạnh mẽ và nó sẽ trở thành một trung tâm ban rải tình thương. Trái lại, nếu nó
bị hắt hủi, nó sẽ trở nên hung hãn vì mầm yêu thương đã bị dập tắt rồi. Bổn phận
làm cha mẹ là một điều vô cùng thiêng liêng, một trách nhiệm vô cùng quan trọng
hơn là việc chỉ lo cho nó đủ ăn, đủ mặc. Tình thương là một năng lực sáng tạo
khiến người thương và kẻ được thương trở nên phong phú. Trên thế gian này, tình
thương là một thứ mà ai cũng có thể cho mà không sợ phung phí. Một tình thương
chân thật có giá trị giao hoà, không gì có thể thay thế được. Nó không bao giờ
gây hư hại, mà chỉ tạo ảnh hưởng tốt lành. Tình thương là một sinh lực có thể
chữa trị tất cả mọi bệnh tật và đây là điều khoa học cần chú trọng đến.
Ch9
Bác sĩ Bandyo dẫn chứng:
- Sách “Journal of Medecine” có đề cập đến
cuộc nghiên cứu của bác sĩ René Spitz, thuộc đại học New York. Hai nhóm trẻ sơ
sinh được nuôi dưỡng khác nhau. Nhóm thứ nhất được nuôi dưỡng bởi chính cha mẹ
chúng; nhóm thứ hai được giao cho các cô y tá. Tất cả đều được nuôi nấng, ăn uống
như nhau chỉ khác ở sự yêu thương. Chỉ vài tháng, nhóm trẻ thứ nhất phát triển
mạnh mẽ, lên cân, khoẻ mạnh, trong khi nhóm thứ hai chậm ăn, chậm lớn và đau ốm
lung tung. Bác sĩ Spitz kết luận rằng trẻ con cần tình thương để có thể phát
triển bình thường. Khoa học thực nghiệm đã chứng minh như thế, nhưng bậc làm
cha mẹ đâu mấy ai dành nhiều thời giờ cho các con? Họ chỉ lo cho chúng ăn mặc đầy
đủ là cảm thấy làm tròn bổn phận rồi. Cũng vì thế, xã hội Âu Mỹ tuy vật chất đầy
đủ, nền giáo dục rất cao mà lại phát sinh đủ các hiện tượng tội ác, thần kinh,
vi phạm luật pháp một cách kỳ dị khác các xứ chậm tiến. Tại sao những nhà thông
thái không đặt câu hỏi, phải chăng bậc cha mẹ đã không dành đủ thời giờ cho con
trẻ để chúng phát triển bình thường? Phái đoàn im lặng. Họ thấy bác sĩ Bandyo
quả rất có lý trong vấn đề này.
- Hãy trở lại vấn đề các thiên thần, họ còn ảnh
hưởng gì đến đời sống con người nữa không?
- Ông có thể sử dụng khả năng thần nhãn vào
các việc khác như thế giới bên kia cửa tử được không?
- Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng
chết không phải là hết, mà chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang
kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có gì đáng
sợ như người ta vẫn nghĩ.
Ch10
- Người Á châu thường tin rằng các vong linh
thân nhân có thể giúp đỡ người sống và có các quyền năng đặc biệt, vì vậy, có tục
lệ thờ cúng tổ tiên.
- Theo sự hiểu biết của tôi, con người khi sống
ra sao thì chết cũng thế thôi. Không có gì thay đổi hết! Họ không thông minh
hơn, hiểu biết hơn. Hơn nữa, âm dương cách trở, họ khó có thể giúp gì cho người
cõi trần. Dĩ nhiên, họ rất muốn tiếp xúc với thân nhân còn sống, nhưng người sống
đâu ý thức gì đến sự hiện diện của họ. Đó cũng là lý do người chết rất đau khổ.
Hơn nữa, người chết đọc được tư tưởng người sống qua thể vía và đôi lúc biết rõ
sự thật còn làm họ đau khổ hơn nữa. Thử tưởng tượng cha mẹ đọc được tư tưởng đứa
con mừng rỡ khi cha mẹ chết vì được hưởng gia tài. Người chồng mừng rỡ vì vợ chết
rồi, từ nay tha hồ tự do, muốn làm gì thì làm. Người chồng thấy vợ mừng chồng
chết vì đã trút được gánh nặng. Các ông nên biết, người đau khổ nhiều, phần lớn
là người chết, chứ không phải người sống. Do đó, họ cần được an ủi, chỉ dẫn.
- Có nhiều cách giúp đỡ người chết, một cách
tiêu cực và một cách tích cực. Đối với thân nhân người chết, họ có thể làm một
cách tích cực như giúp cho người chết thấy thoải mái, nhẹ nhàng để họ mau siêu
thoát. Việc thứ nhất nên tránh than khóc, kêu gào, để người chết khỏi xúc động,
thương tiếc, và quyến luyến, khó rời cõi trần được. Việc thứ hai là tránh cỗ
bàn, mổ gà, làm thịt vì như thế chỉ kêu gọi các vong linh bất hảo, các cô hồn
đói khát kéo đến đầy nhà gây ảnh hưởng xấu đến người chết. Nên cầu nguyện trong
suốt 49 ngày liền, vì đây là lúc người chết đang ở trong trạng thái quan trọng,
sự cầu nguyện khiến đầu óc họ trở nên sáng suốt, hiểu biết dễ siêu thoát. Nên
thiêu xác thay vì chôn cất, để người chết không thấy đau khổ khi nhìn thể xác mình
hư thối, bị dòi bọ đục khoét. Khi không còn lưu luyến thể xác, họ sẽ dễ siêu
thoát hơn. Tại Ấn Độ, tất cả người chết đều được hoả táng, đó là phong tục rất
tốt, vì không còn các vong hồn quanh quẩn các nghĩa địa nữa. Việc tích cực giúp
đỡ thường do các tu sĩ đảm trách. Họ xuất vía sang cõi chết để an ủi, hướng dẫn
vong linh. Tu sĩ đảm nhiệm việc này phải phát nguyện phụng sự hoàn toàn, phải
trải qua một thời gian huấn luyện để giữ tâm trí luôn sáng suốt, vì cõi chết có
nhiều cảnh ghê rợn với các sinh vật lạ lùng, một người thiếu kiến thức, hiểu biết,
có thể kinh hoàng ghê sợ. Chỉ khi nào có thể tự chủ hoàn toàn, không bị ảnh hưởng
bên ngoài làm giao động, tâm hồn luôn yên tĩnh không lo âu, sợ sệt và có một
tình thương hoàn toàn rộng rãi đến tất cả, không còn phân biệt, thì sự giúp đỡ
mới kín đáo, vô tư và có hiệu quả. Các ông nên nhớ, qua cõi này, sinh vật có thể
đọc được tư tưởng lẫn nhau nên một lời nói không chân thật, tinh khiết có thể
mang đến hậu quả không thể lường được.
- Tại vì tôi đang được huấn luyện để làm việc
này. Sự khai mở thần nhãn giúp tôi thu thập kiến thức về cõi giới vô hình. Từ
đó, tôi nhận thức sứ mạng đức Mẹ đã giao cho tôi. Tôi đã phát nguyện dành trọn
đời để thực hiện thiên ý. Đó là lý do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng của đô thị
để đến đây. Ban ngày, tôi là một bác sĩ chăm lo săn sóc những người bệnh. Thời
giờ còn lại tôi phục vụ đức Mẹ qua các công việc ngài giao phó. Các bạn thân mến,
trọn cuộc đời, chưa lúc nào tôi sống thật trọn vẹn như bây giờ.
Hết chương 6
- - - - - - -
#hanhtrinhvephuongdongchuong6 #sachnoi #audiobook #hemradio #hanhtrinhvephuongdongchuong5 #haythuctinhtruocthientai #haytinhthuctruocdaidich #haygiacngotruocdaidichcovid19 #truongmamnon #truongmaugiao #kidergarten #preschool #fieldtrip #followus #followme #QuyetTamDayLuiDaiDichCovid19 #NiemTinChienThang #VungTinVietNam #KhongDeAiBiBoLaiPhiaSau #HAYSONGCUOCSONGCUAMINH #HAYDITHEOTRAITIM #HAYYEUTHUONGNHIEUHON #HAYGIAODUCHOPTAC #DUNGBITMOMLUTRE #GIAODUCHANHPHUC #DungNhoiNhetKienThucMayMoc #KYNANGCUOCSONG #HAYBAOVETRAIDAT #HAYBAOVEMOITRUONG #HAYBAOVEMETRAIDAT #EarthBuddies #HOCBANGCATRAITIM #GIAODUCCHUDONG #TRUONGHOCMO #GIAODUCTUDO #covid19 #corona #mamnonhoaanhdaoblogspotcom #kenhgiaoducso1vietnam #dophuchoaanhdao #beyondloving #share #hoaanhdaotayho #haycoductin
0 comments:
Đăng nhận xét